Lịch sử ngành in

Từ rất xa xưa, trước khi phát minh ra giấy và ngành in, con người đã phải sử dụng thẻ tre, thẻ gỗ mỏng  để ghi chép lại những điều cần ghi nhớ

Vào thời Tây Hán, người Trung hoa đã bắt đầu phát minh ra giấy, nhưng phương pháp sản xuất còn thô sơ, giấy lúc đó vẫn chưa được sử dụng để ghi chép.

Đến thời Đông Hán, có người tên là Sái Luân, dựa trên cơ sở của giấy Tây Hán, vào năm 105, đã cải tiến giấy. Ông dùng vỏ cây, dây đay, vải rách… để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Loại giấy này trong các sách cổ gọi là “Giấy Sài hầu”.

Sau khi được phát minh giấy đã được sử dụng rộng rãi, dần dần thay thế cho các thẻ tre và gỗ và các tấm vải để dùng viết sách. Nhưng thời điểm này, vẫn chưa phát minh ra nghề in ấn. Một cuốn sách muốn trở thành nhiều cuốn khác phải tốn rất nhiều công sức khi in ấn, thời gian, ảnh hưởng đến việc phổ cập và truyền bá văn hoá. Con người đã tích cực tìm cách, mày mò sáng tạo, cuối cùng đã hoàn thành công trình truyền bá văn hoá - nghề in ấn đã được phát minh.

Khởi nguồn của nghề in ấn, trước hết phải nói đến là các con dấu và bia khắc. Con dấu là các hình và chữ khắc trên ngọc, gỗ hoặc đá. Chúng xuất hiện sớm nhất vào thời Xuân thu Chiến quốc. Theo “Sử Ký Tư Mã Thiên”, sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, muốn chiến công của mình được lưu lại muôn đời, ông ta đã cho khắc vào bia đá ở nhiều nơi. Vào năm 175, theo đề nghị của nhà học giả Sái Ung, vua Tần đã sai khắc “Ngũ kinh” của đạo Nho vào bia đá, để các học sinh viết theo. Hai trăm năm sau, có người đã phát minh ra phương pháp “chạm” vào bia đá, tạo ra ấn phẩm đầu tiên trên thế giới. Việc sử dụng con dấu và đá khắc lâu dài đã tạo điều kiện cho nghề in ấn ra đời. Người xưa khi sử dụng con dấu, vẫn phải bôi lên mặt con dấu một lớp bùn in mỏng, gọi là “phong nê” (phủ bùn). Từ sự gợi ý của con dấu, người ta khắc những trang sách lên tấm gỗ giống như khắc những con dấu, rồi đem in. Bản in ấn cổ nhất theo cách này còn lưu lại đến bây giờ là cuốn “Kinh Kim Cương” vào năm Hàm Thông thứ 9 đời nhà Đường.

Phát minh phương pháp in ấn bằng bản khắc đã đưa nghề in thêm một bước lớn, nhưng việc in ấn một sản phẩm sách vẫn mất rất nhiều thời gian, và cần phải cải tiến liên tục. Trải qua rất nhiều cố gắng của nhiều người, đến đời Tống, một người tên là Tất Thăng đã phát minh ra lối in con chữ rời. Ông đã lấy keo đất làm thành các phôi theo cùng một quy cách. Mỗi đầu khắc chữ ngược, bỏ vào lò nung cho cứng lại, thế là thành các chữ rời (bằng sứ). Chữ rời được xếp thành bảng, dùng một khung ván bằng sắt, trước hết quét lên ván sắt một lớp sáp và nhựa thông, sau đó nhặt một chữ rời xếp vào trong khung. Xếp đầy một khung làm thành một bản. Sau đó hơ lên lửa, sáp và nhựa thông sẽ chảy ra, người ta lại lấy mặt ván phẳng ép lên, sáp và nhựa thông đông cứng lại, chữ rời sẽ bám chặt vào ván sắt, lúc này chúng ta có thể quét mực đặt giấy, lăn ép để in. Phát minh này sau đó đã được cải tiến lên với các chữ rời bằng kim loại như: đồng, sắt, chì…

Nghề in ấn của Trung hoa  phát minh đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển giao lưu văn hoá trên toàn thế giới. Ngày nay, ngành in ngày càng hoàn thiện với những thiết bị được áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiên như máy tính, và các thiết bị cơ khí hiện đại

(Zimia design ST)